Có bao nhiêu người được vinh danh ở nước ta thời phong kiến? Trạng thái kép hiện trạng? Họ là ai và sự nghiệp của họ như thế nào? Tất cả sẽ được trường Cakhia TV giải đáp ngay sau đây. Mời các bạn theo dõi bài viết.
Hiện trạng là gì?
Trạng nguyên hai chấm, tức Trạng nguyên hai chấm, là danh hiệu được đặt cho một số Trạng nguyên Việt Nam. Mặc dù họ không chính thức đỗ trạng nguyên ở một quốc gia khác, nhưng nền giáo dục của họ được công nhận là tài sản của quốc gia đó – tất cả đều là người Trung Quốc. Trong số 49 trạng nguyên của Việt Nam, có 4 vị được vinh danh là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
4 hiện trạng bao gồm:
- Mạc Đĩnh Chi dưới thời Trần Anh Tông
- Nguyễn Trực thời Lê Thái Tông
- Nguyễn Đăng Đạo thời Lê Hy Tông
- Nguyễn Nghiêu Tư thời vua Lê Nhân Tông
Hiện trạng của hai quốc gia là gì?
Dựa vào danh sách trên, bạn có thể biết hai quốc gia này là ai.
Đây là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346) quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là thôn Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương). Ông đỗ Trạng nguyên vào năm Hưng Long thứ 12 (1304) đời vua Trần Anh Tông. Nhờ trí thông minh và kiến thức sâu rộng, ông nhiều lần được cử sang Trung Quốc truyền đạo.
Năm 1308, ông đi sứ Nguyên, mừng Nguyên vương Vũ Tông đăng quang. Mới đó mà đã 20 năm kể từ cuộc chiến tranh Đại Việt lần thứ ba với quân Nguyên (1287-1288) nên sứ bộ nước ta bị các vua và quan nhà Nguyễn “căng thẳng”. Tuy nhiên, trong hoạt động ngoại giao, ông đã thể hiện dũng khí và tài năng của mình, để lại nhiều giai thoại nổi tiếng, trong đó tiêu biểu nhất là câu đố “chí mạng”. Khi sứ bộ tạm biệt để về nước, vua Nguyên nghĩ ra một bài toán khó: Một chiếc thuyền chở 3 người gồm: vua, thầy và cha (quân, sư, phó). Đến giữa sông, thuyền bị sóng lớn đánh chìm. Nếu bạn ở trên bãi biển để cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người, bạn sẽ cứu ai?
Khi đó, trả lời sai sẽ là tội chặt chân, chặt đầu hoặc cầm giữ, dẫn đến việc Việt Nam mất đi những nhân tài. Mạc Đĩnh Chi đáp: Chúa thấy thuyền chìm, phải nhảy xuống sông cứu. Nếu bạn gặp ai trước, hãy cứu người đó, cho dù người đó là vua, thầy hay cha. Cuối cùng, ông và đại sứ quán đã có thể chết trong hòa bình.
Video về trạng nguyên nhị khoa Mạc Đĩnh Chi
Bằng nghị lực và lòng dũng cảm phi thường, vượt qua mặc cảm về nguồn gốc gia đình và ngoại hình, Mạc Đĩnh Chi đã khiến triều thần Việt Nam và các nước châu Á khâm phục. Ông trở thành Trạng nguyên đầu tiên của nước ta được sử sách ghi lại. Người ta thường nhắc đến bài Phú Hoa sen trên ngọc như một cách ca ngợi khí chất đặc biệt cao quý của một người.
Tiểu sử của 3 vị Trạng nguyên khác?
Ngoài thông tin về trạng nguyên Hải Quốc xưa, trạng nguyên là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi Sau đây mời các bạn xem thêm tiểu sử của 3 Trạng nguyên và Trạng nguyên:
Nguyễn Trực (1417-1473) không chỉ là trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam mà còn được vua nhà Minh phong tặng danh hiệu “Lưỡng quốc trạng nguyên” trong một lần đi sứ sang Trung Quốc. Ông quê ở xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng; Đến năm 10 tuổi, ông đã đọc và viết thông thạo chữ Hán; 18 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương; Năm 26 tuổi, ông đỗ kỳ thi Đình (kỳ thi do chính nhà vua ra đề và chấm) và đứng đầu trong 33 vị tiến sĩ cùng khóa, được ghi trên bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc tử giám. Bạn đang ở đây. Đến nay, bài thi Đình của Nguyễn Trực được coi là một trong những bài thi Đình hay nhất.
Ngày 13 tháng 3 năm Giáp Tuất (1454), mẹ ông qua đời, ông phải về quê thọ tang. Ba năm sau, tháng sáu hết tang mẹ, tháng tám sứ nhà Minh là Hoàng Giản sang nước ta. Tương truyền, khi vua Lê Nhân Tông gọi ông ra đón sứ thần, ông đã đáp ứng như thần, đặt bút xuống và vẽ ngay 50 câu bài Tiễn biệt, khiến các sứ thần phương Bắc vô cùng khâm phục. Sau đó, ông được nhà vua cử đi sứ Trung Quốc. Ở đó, mãn kỳ thi Đình, ông và Trịnh Khiết cùng dự thi. Đề thi có 7 câu hỏi về “Luận điểm về việc trị nước của các triều đại”. Ông đáp ngắn gọn: “Vua sáng mà hiền thì nước thịnh; Vua không minh, tôi không hiền thì nước diệt. Vua Minh yêu mến tài năng của ông và phong ông là “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.
Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719) người làng Hoài Thượng, hiệu là “Bửu Thượng”, nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Đó là lý do người ta gọi anh là Trang Bửu. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Năm 16 tuổi, Nguyễn Đăng Đạo đi thi và đỗ tam trường (văn bằng). Năm 19 tuổi, ông đỗ đầu Hương Cống (cử nhân) và được triều đình cho vào học tại Quốc Tử Giám. Năm Chính Hòa thứ 4 (Quý Hợi, 1683), ông thi Đình, đỗ Trạng nguyên.
Trong chuyến đi sứ năm 1697, sứ thần Nguyễn Đăng Đạo và đoàn sứ bộ không những phải triều cống mà còn phải khai hoang các vùng đất thuộc động Tuyên Quang và Hưng Hóa đã bị nhà Thanh xâm chiếm trái phép. Xưa kia, biên giới là vấn đề trọng yếu của đất nước, là xung đột lớn giữa hai nước, Nguyễn Đăng Đạo với học vấn uyên thâm, trí tuệ thông minh cộng với chính sách ngoại giao tài tình đã khiến vua Thanh và các đồng minh mà quần thần phải nể phục. sự tôn trọng. . Khi bàn về biên giới, ngoài lý lẽ, Nguyễn Đăng Đạo còn đem thư và bản đồ cũ của hai hang ra, tranh luận mấy ngày. Tòa sử yếu của Mãn Thanh chuyển hướng và trả lời Nguyễn Đăng Đạo rằng phần bản thảo sẽ xem xét và trả lời sau.
Nguyễn Nghĩa Tú (1383 – 1471) Tiếng Trung Quốc: 阮堯 小, hiệu Nguyễn Diệu Trụ (阮文豬), hiệu Tuấn Chu (君廚), hiệu Song Khê (松溪), là trạng nguyên đầu tiên của nhà Lê, làm quan đến chức Thượng thư. Theo Đại Việt sử ký Toàn thư, ông thông dâm với mẹ vợ nên bị người đời chê cười là Trạng lợn. Từ đó, tiêu chuẩn đạo đức của trạng nguyên cũng trở nên khắt khe hơn.
Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448) đời vua Lê Nhân Tông, hưởng thọ 65 tuổi, làm quan đến chức Học sĩ, Tiết độ sứ Tân Hưng Thượng thư. .
Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch, 1459), Lê Nghi Dân được cử cùng Lê Cảnh Huy, Nguyễn Như Đổ, Hoàng Thành sang nhà Minh triều cống hàng năm và xin ngừng tìm kiếm ngọc trai. Văn bản của Viện Hán Nôm cho phép ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang Đại Minh để xin xuất gia.[3] còn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Ngày 20, Trần Phong, Lương Nhữ Hộc, Trần Bá Linh được cử sang sứ nhà Minh xin sắc phong”. Sau đó, ông lại được thăng Thượng thư (đứng đầu sáu phòng).
**********
Đăng bởi: Cakhia TV
Nguồn thông dụng:
/luong-quoc-trang-nguyen-thoi-tran-la-ai/
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết Lưỡng quốc trạng nguyên thời trần là ai? . Đừng quên truy cập Cakhia TV Trang web xem trực tiếp bóng đá không quảng cáo hot nhất hiện nay